UGM-27 Polaris
UGM-27 Polaris

UGM-27 Polaris

Tên lửa UGM-27 Polaris là một tên lửa đạn đạo hai tầng nhiên liệu rắn phóng từ tàu ngầm. Đây là SLBM đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ, nó được trang bị từ năm 1961 đến năm 1996.Vào giữa những năm 1950, Hải quân đã tham gia vào dự án tên lửa ICBM Jupiter cùng với Quân đội Hoa Kỳ, và đã thay đổi thiết kế sao cho tên lửa có thể trang bị trên tàu ngầm. Tuy nhiên, Hải quân Mỹ quan ngại về việc trang bị tên lửa nhiên liệu lỏng trên tàu ngầm, thay vào đó Hải quân Mỹ sử dụng phiên bản tên lửa dùng nhiên liệu rắn - Jupiter S. Năm 1956, trong một nghiên cứu chống ngầm được gọi là Dự án Nobska, Edward Teller cho rằng việc thu nhỏ đầu đạn vũ khí nhiệt hạch là khả thi. Chương trình phát triển một tên lửa ICBM có khả năng mang đầu đạn nhiệt hạch thu nhỏ đã bắt đầu với tên gọi Polaris, phóng thử nghiệm vào tháng 2 năm 1960, chỉ chưa đầy bốn năm sau đó.[1]Vì tên lửa Polaris được bắn dưới nước từ tàu ngầm, nên về cơ bản nó khó bị tổn thương trước đòn tấn công hạt nhân của kẻ thù. Do vậy Hải quân Mỹ cho rằng chúng nên được giao toàn bộ vai trò răn đe hạt nhân. Điều này dẫn đến cuộc tranh cãi giữa Hải quân và Không quân Hoa Kỳ, vốn cho rằng máy bay ném bom chiến lược và ICBM mới là lực lượng them chốt một khi xảy ra chiến tranh hạt nhân. Năm 1963, một thỏa thuận mua bán Polaris diễn ra giữa Anh và Mỹ, nhờ đó Hải quân Hoàng gia cũng có trong trang bị tên lửa Polaris, và nó trở thành vũ khí răn đe hạt nhân chủ yếu của Anh. Mặc dù Hải quân Italia cũng đã thử nghiệm Polaris nhưng họ không đưa vào trang bị loại tên lửa này.Tên lửa Polaris dần dần được thay thế trên 31 trong số 41 tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo ban đầu của Hải quân Hoa Kỳ bằng tên lửa SLBM Poseidon có khả năng mang MIRV bắt đầu từ năm 1972. Trong những năm 1980, các tên lửa này được thay thế trên 12 tàu ngầm bằng tên lửa Trident I. 10 chiếc SSBN lớp George Washington - và Ethan Allen vẫn còn trang bị phiên bản Polaris A-3 cho đến năm 1980 vì giếng phóng tên lửa của chúng không đủ lớn để chứa SLBM Poseidon. Khi tàu ngầm USS Ohio bắt đầu thử nghiệm trên biển vào năm 1980, những chiếc tàu ngầm này đã loại bỏ các tên lửa SLBM khỏi trang bị và tái thiết kế thành tàu ngầm tấn công để tránh vi phạm hiệp ước vũ khí chiến lược SALT II.Sự phức tạp trong quá trình phát triển tên lửa Polaris đã dẫn đến việc phát triển các biện pháp quản lý mới, bao gồm Kỹ thuật đánh giá và rà soát chương trình (PERT) để thay thế phương pháp biểu đồ Gantt đơn giản hơn.

UGM-27 Polaris

Tầm hoạt động 2.500 hải lý (4.600 km)
Hệ thống chỉ đạo Dẫn đường quán tính
Các biến thể A-1, A-2, A-3, Chevaline
Chiều cao 32 ft 4 in (9,86 m)
Tốc độ 8.000 mph (13.000 km/h)
Đầu nổ 1 đầu đạn nhiệt hạch W47 hoặc 3 đầu đạn nhiệt hạch W58
Nền phóng Phóng từ tàu ngầm
Loại Tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo
Sử dụng bởi Hải quân Mỹ, Hải quân Hoàng gia Anh
Phục vụ 1961–1996
Khối lượng 35.700 lb (16.200 kg)
Chất nổ đẩy đạn Nhiên liệu rắn
Nơi chế tạo Mỹ
Độ chính xác sai số bán kính 3.000 foot (910 m)
Nhà sản xuất Tập đoàn Lockheed
Động cơ Tầng đầu sử dụng động cơ tên lửa nhiên liệu rắn của Aerojet General
Tầng hai sử dụng động cơ của Hercules
Đường kính 4 ft 6 in (1.370 mm)
Năm thiết kế 1956–1960
Hệ thống lái Điều chỉnh vecto lực đẩy
Sức nổ 3 × 200 kt